My Blog List
Friday, December 9, 2022
Thursday, June 16, 2022
Quê Hương Và Tình Yêu Tác giả: Dương Lam[vophubong]
Quê Hương Và Tình Yêu
Tác giả: Dương Lam[vophubong]
QUÊ HƯƠNG VÀ TÌNH YÊU
1
Em sắp say rồi !!! Uống nữa thôi ?
Cờ chưa tan cuộc vẫn còn chơi !!!
Giang hồ gác mái bên sông vắng,
Trăng nước thuyền khua- một trận cười .
2
Tình vẫn tràn như dòng nước chảy,
Thơ còn đầy tựa áng mây trôi.
Nửa đêm thức giấc hồn ngơ ngác,
Rưọu hết tìm em - tận cuối trời…
3
Cuối trời xin hẹn gặp lại em,
Cho ấm bờ vai mắt hữu tình.
Cho thắm bờ môi ngày tái ngộ,
Cho nồng hương lữa kiếp ba sinh,
4
Duyên xưa xuân đến bao lần gặp,
Tình cũ thu đi chẳng dễ tìm .
Rượu hết bên nhau chìm lối mộng,
Hoa đào một cánh nở nguyên trinh…
5
Nguyên trinh còn lại bao xuân nữa,
Lữa lựu hè sang đỏ thắm tường.
Bạn cũ trở về say hẹn ước,
Người xưa nhớ lại lúc tha hương.
6
Hoa trôi bến chợ đời lưu lạc,
Dế gọi vườn hoang cảnh đoạn trường.
Mẹ ngóng tin con mòn mõi đợi,
Tiếng gà xao xác gáy thềm sương.
7
Thềm sương tiếng cuốc gọi bên hè,
Giọng chị hò ơ dưới luỹ tre .
Giã gạo nuôi em ngày mẹ yếu,
Bồng con đứng đợị buổi anh về .
8
Canh rau tối ngủ còn lưng bụng,
Cơm nguội khuya nằm dạ tái tê .
Những tưởng ngày xuân tràn mộng đẹp,
Nào hay mưa dột chẳng tranh che.
9
Tranh che ta đắp bằng hương lữa,
Môi giữa bờ môi giữ mặn nồng .
Chẳng có chăn bông ngày ấm lạnh ,
Không thuyền đưa đón buổi qua sông.
10
Em thơ lội bộ giờ đi học,
Mẹ yếu thâu đêm bắt muỗi mòng .
Cảnh khổ ngày xưa ngồi nhớ lại,
Qua rồi năm tháng những long đong.
11
Long đong trên bước đường lưu lạc,
Bốn hướng về đâu dặm hải trình.
Biển rộng trời cao bằng sãi cánh,
Sông dài núi thẳm gót phiêu linh.
12
Công cha nghĩa mẹ còn chưa trả,
Ơn chị tình em hẹn đáp đền.
Nắng nhuộm rừng phong. Thu đã tới,
Bên hồ từng chiếc lá lênh đênh...
13
Lênh đênh như chiếc thuyền không bến,
Dòng ngược dòng xuôi vạn nẽo đời.
Trên bến dưới thuyền người tấp nập,
Sông hồ nước chảy lục bình trôi.
14
Sáng qua Phú Quốc trời êm ả,
Chiều ghé Côn sơn núi vẽ vời.
Mây nước xa trông về cố quận,
Nỗi lòng thương nhớ biết sao vơi...
15
Sao vơi lòng biển tình sông đó,
Cuả kiếp giang hồ với nước mây.
Lên bến đò chiều thương kẻ bắc,
Qua sông nắng sớm nhớ trời tây.
16
Thơ vương khói thuốc sầu vương nhạc,
Rượu hết đàn run phím lạc dây.
Cô lái đò xưa đưa lữ khách,
Sông buồn đôi mắt thấy cay cay…
17
Cay cay đôi mắt chiều xuân đó,
Cô gái ngày xưa chẳng trở về.
Gió núi đèn khuya vàng phố thị,
Trăng rừng sương lạnh trắng sơn khê .
18
Hoa không vạn cổ mà phong nhụy
Tình chẳng trăm năm cũng vẹn thề.
Lời của trăng nguyền dù bến cạn,
Rừng xanh núi thẳm chẳng phân ly…
19
Ly hương gặp lại mùa hoa nở,
Chim én bên trời vụt cánh bay,
Nhạn lạc bầy tìm nhau biển bắc,
Anh tìm em lội khắp trời tây.
20
Sáng lên New York sương mờ lạnh,
Chiều lại Boston tuyết phủ cây...
Anh trở về vui lòng phố thị ,
Em về rượu uống trắng đêm say...
21
Say cho bỏ những ngày dong ruổi,
Cho bỏ sầu đong lắc lại đầy .
Để nhớ gừng cay thương muối mặn,
Cho lòng ai vẫn nhớ thương ai.
22
Đêm về phố mộng sương giăng mắc,
Ngày lại mưa đông gió thổi mây.
Lánh đục cho dòng đời thanh thoát,
Để lòng vơi bớt nỗi niềm tây.
23
Niềm tây mây gởi buồn theo nắng
Ta gởi tơ lòng trãi bốn phương.
Bướm gởi hồn thơ qua lối mộng ,
Cho tình trả nợ kiếp tơ vương.
24
Ngẩn ngơ trăng cũng buồn theo gió,
Thơ thẩn sầu đong giữa nắng ngàn,
Thì thôi sầu ấy ngàn đêm lẻ,
Góp lại cho tròn gởi gió sương .
25
Gió sương từ độ bước quan hà,
Mưa nắng bên trời giọt lệ sa.
Xa nước bao đêm sầu cố quốc,
Tha hương ngàn dặm nhớ quê nhà.
26
Chín chiều ruột thắt bầm gan mẹ,
Một tấc lòng son xót dạ cha .
Mong ước sao khuya trời tỏ rạng ,
Mơ ngày mai lại cảnh phồn hoa
27
Phồn hoa mơ lại ngày ta gặp,
Tôi với em đi giữa phố phường.
Má đỏ son hồng còn thắm sắc,
Hoa cài aó trắng vẫn thiên hương.
28
Ngây thơ nhắc lại ngày hoa bướm,
Thờ thẩn rồi quên buổi tựu trường.
Kỹ niệm ngày xưa tràn ngập lối,
Đêm về thao thiết nhớ muôn phương.
29
Muôn phương bè bạn tình thân mến,
Của kiếp nhân gian giữa chợ đời,
Buổi loạn ly rồi bao kẻ khóc,
Ngày thanh bình lại lắm người vui.
30
Trăng về phố Hội mây giăng lối,
Thuyền ghé Đà giang sóng vẽ vời.
Núi Ngũ hành sơn năm ngọn tỏa,
Phượng hoàng xoè cánh đã ra khơi.
Chú thích:
[1] Ngũ hành sơn ,danh lam thắng cảnh đất Quảng nam,với truyền thuyết “ngũ phụng tề phi” năm phụng đồng bay . Đó là:
Theo văn bia tiến sĩ Mậu Tuất 1898 dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh Huế, thì khoa thi này, ngoài Đào Nguyên Phổ đỗ đầu với danh Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, những vị Tiến sĩ còn lại đều là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
1 Phạm Liệu 2Phan Quang 3 Phạm Tuấn4 Ngô Chuân 5 Dương Hiển Tiến [cả 5 vị trên đều đỗ tiến sĩ cùng khóa và cùng quê Quảng nam...
31
Ra khơi sóng tỏa muôn trùng thẳm,
Biển biếc trời xanh núi ngút ngàn.
Côn đảo mây che hè nắng đỗ,
Trường sa mưa tạnh buổi đông sang.
32
Ngựa hồ gió lạnh hí phương bắc, [1]]
Chim Việt đậu cành chọn hướng nam.
Ta giống Rồng Tiên dòng Lạc Việt ,
Làm sao tỏ mặt với lân bang…
Chú thích:
[ 1 ]Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi.
Nghĩa là: Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt ở cành Nam.
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn. Vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín…dễ kiếm ăn.
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm ổ, chúng chọn cành cây chĩa về phương Nam, tức là hướng quê nhà mà chúng sinh trưởng.
Chim Việt tức (Việt điểu) để chỉ chim nhớ quê hương cố quốc.
Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến . Nước Hồ vốn ở xứ lạnh , khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái.
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ , mỗi độ đông về khi có gió bấc lạnh [là gió từ phương bắc thổi đến, ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.
"Chim Việt ngựa Hồ" trở nên thành ngữ, có nghĩa bóng là loài vật mà cũng không quên nơi quê cha đất tổ , dù ở nơi đất khách quê người.
33
Lân bang có kẻ ưa dòm ngó,
Sự nghiệp cơ đồ của tổ tiên.
Hoa thắm trời Nam ngàn thế hệ,
Non xanh đất Việt trải ba miền.
34
Đằng Giang bẩy địch xua Nam Hán,[1]
Vạn Kiếp điều binh đuổi giặc Nguyên.[2]
Con cháu đồng lòng chung nghiệp cả,
Lo chi non nước chẳng bình yên…
Chú thích:
[1] Trận Bạch Đằng, năm 938 [.wikipedia.]
Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên nắm quyền, Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của vị cố Tiết độ sứ, đồng thời cũng là người đứng liên minh Ngô - Dương, tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ sai con trai là thái tử Lưu Hoằng Tháo đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lăng.
Năm 938, Ngô Quyền đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến.
Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, thái tử Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn. Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng năm 938, kết thúc hơn một thiên ky Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam….
Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá :
“
Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng chiến công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu…
[2] Trận Vạn Kiếp [wikipedia.] Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2 năm 1285 tại Vạn Kiếp, 20 vạn quân Trần với hơn 1000 chiến thuyền đã chống trả quyết liệt cuộc tiến công của 30 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy. Để bảo toàn lực lượng, quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp. Tháng 5 năm 1285, quân dân nhà Trần bắt đầu phản công.
Cuối tháng 5, sau thảm bại tại Tây Kết và Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay), quân Nguyên tìm cách rút quân về nước. Đầu tháng 6, trên đường rút chạy qua sông Như Nguyệt bị cánh quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản chặn đánh. Cánh quân của Thoát Hoan và Lý Hằng chạy theo đường Vạn Kiếp bị quân phục kích nhà Trần bố trí từ trước xông ra phản công. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng tử trận. Thoát Hoan được một viên tì tướng "giấu trong ống đồng" chạy thoát về Trung Quốc theo hướng Lạng Sơn. Cùng với các trận chiến khác, trận Vạn Kiếp đã góp phần quan trọng quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
[Vạn Kiếp nay thuộc vùng Vạn Yên, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương có đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn...
35
Bình yên ruộng lúa với nương dâu,
Phố xá bừng lên ánh nhiệm màu
Bến Nghé thiếp sang ngày hội ngộ
Hà tiên chàng lại buổi hoàn châu.
36
Hoa xưa hẹn lối ngày phong nhụy,
Trăng cũ thề đưa nối nhịp cầu.
Cách trở khôn ngăn dòng lá thắm.
Tình chàng ý thiếp gởi muôn câu…
37
Muôn câu ý đẹp tình thêm đẹp,
Rượu tiễn chàng đi bước hải hồ.[5]
Vạn dặm gươm hồng tung vó ngựa,
Ngàn năm khuê các dậy lầu thơ...[6]
38
Ta vây Khương thượng,giặc tan vỡ,
Địch đến Nhị hà, nươc nghẽn bờ.[7]
Thây giặc chất cao thành gò Đống,[8]
Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ...[9]
Chú thích:
[5] Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế … , chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - cố thủ chờ lệnh. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân , Nguyễn Huệ thống lãnh đại quân tiến ra Bắc. Ngọc Hân công chúa tức Hữu cung hoàng hậu tiễn đưa [ …Rượu tiển chàng đi bước hải hồ , Vạn dặm kiếm hồng tung vó ngựa …]
[6]. Ngọc Hân Công chúa là một cô gái thông minh, một nữ sĩ tài hoa ,hương sắc vẹn toàn .Từ nhỏ đă được học thông kinh sử và giỏi thơ văn .Bà đã nỗi tiếng trong làng thơ nôm với bài “Ai tư vãn” gồm 164 câu,theo thể song thất lục bát ca tụng chiến công vua Quang Trung Nguyễ n Huệ [ Ngàn năm khuê cát dậy lầu thơ…]
[7,8] Đêm 30 tháng Chạp âm lịch Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn quân lính bỏ mạng. [Ta vây Khương Thượng giặc tan vỡ …] Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. [Thây giặc chất cao thành Gò Đống…]
Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. [Địch đến Nhị hà nước nghẽn bờ ]… Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới cho đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Tàu ở biên giới dắt nhau bỏ chạy làm cho suốt năm sáu chục dặm đường không có bóng người và trâu bò súc vật…
Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày với kế hoạch tốc chiến tốc thắng ,với thiên tài mưu lược về quân sự của Nguyễn Hụê , quân Tây Sơn với quân số 10 vạn [phần lớn là dân quân chưa được tập luyện] đã đánh tan 29 vạn quân Thanh , lập nên một kỳ công hiển hách nhất trong lịch sữ nước ta và cả thế giới...Trưa mồng 5 Tết xuân Kỹ Dậu, Quang Trung với chiến bào đầy khói đen ,trên mình voi nhuộm đầy khói súng tiến vào thành Thăng Long trong sự vui mừng hã hê chào đón của toàn dân. … [Sau này khi nhớ lại lời hứa hẹn 10 năm sau vua Quang Trung sẽ lấy lại 2 tỉnh Quảng đông và Quảng tây mà Tàu đã chiếm của nước Nam ta trước kia không phải là lời nói quá nếu nhà vua không mất sớm…]!!!
[9]Tin bại trận đưa về, Càn long mắt nhắm mắt mở, nửa tĩnh nửa mê…Thôi rồi giấc mộng đế quốc bành trướng của triều Thanh tan tành thành mây khói…[Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ…]
[ thơ Dương Lam ]
39
Như mơ ngày Tết xuân năm ấy,
Nguyễn Huệ oai hùng giữa núi sông.
Áo trận thơm nồng xuân Kỷ Dậu,
Giáp bào rạng rỡ đất Thăng Long.
40
Trời Nam Lừng Lẫy Trang Hào Kiệt,
Sử Việt Vang Danh Giống Lạc Hồng.
Thắp nén hương lòng dâng Tổ Quốc,
KHÓI TRẦM LỘNG GIÓ QUYỆN TRỜI ĐÔNG...
41
Trời đông một sáng tưng bừng dậy ,
Dân Việt hò reo giữa biển khơi.
Hải đảo đất liền hoa thắm nở,
Rừng xanh núi thẳm lá xinh tươi.
42
Cha xây bờ cõi nghìn hoa gấm,
Mẹ viết muôn trang sử tuyệt vời.
Em hẹn anh về cùng hội ngộ,
Bên dòng sông Cửu nước xanh tươi.
43
Xanh tươi dòng nước Cửu long giang,
Tưới cánh đồng quê trĩu lúa vàng,
Cô gái bên sông hò ới lã !!!
Anh mau về kịp chuyến đò sang .
44
Lòng em như chiếc thuyền nan nhỏ,
Lèo lái đưa anh suốt dặm ngàn!
Thuyền nhỏ nhưng tình em không nhỏ,
Anh về mau kịp chuyến đò ngang.
45
Đò ngang đò dọc người chen chúc ,
Tình Bắc Trung Nam- nghĩa đá vàng.
Sương sớm nắng che hồ Ba Bể,
Mưa chiều mây phủ Ngũ hành san.
46
Ai qua Bản Giốc lòng rưng lệ,
Người đến Nam quan hận bẻ bàng.
Kiếp Bạc trăng soi hồn vạn cổ, [1 ]
Hồ Tây mây phủ mấy lần sương.
Chú thích:
[1] [Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo]
47
Sương phơi nắng trải lòng mong mõi,
Chờ đợi em về thơ nở hoa ?
Bên giọng hò lơ tình bãng lãng,
Điệu đàn khoan lã ý bay xa ...
48
Yêu kiều thục nữ bên sương sớm,
Yểu điệu thuyền quyên giữa nắng tà.
Con bướm vàng bên hiên thỏ thẻ,
Như tình em gái thuở mười ba.
49
Mười ba thuở ấy lòng e thẹn ,
Như gió như mây chẳng hẹn hò.
Như nước sông Hương dòng bẽn lẽn,
Gởi tình Vỹ Dạ nón bài thơ .
50
Trường Tiền nắng đổ mười hai nhịp,
Thiên Mụ chuông sầu vạn cổ xưa .
Hẹn gặp lại em ngày qua Huế,
Về đò An cựu tắm chiều mưa…
51
Chiều mưa hoạ góp mấy vần thơ
Vơi bớt tương tư nỗi đợi chờ
Xóm Vĩ luôn mong ngày tái ngộ
Dòng Hương mãi nhớ tuổi sầu mơ
52
Trường -Tiền gió sớm ai đưa đón ?
An- Cựu đò trưa nắng ngẩn ngơ...
Muôn dặm xa quê lòng khắc khoải
Đêm nghe tiếng hát vọng ven bờ.
53
Bờ liểu chiều nao gió thổi buồn,
Bên người em gái buổi hoàng hôn .
Trên triền Non Nước mây thờ thẩn,
Ngoài bãi Thanh Khê sóng dập dồn.
54
Nắng nhạt tơ chùng tình bãng lãng,
Đàn lơi phím lạc ý chon von .
Nhắn người em gái năm xưa ấy,
Đôi mắt xa xăm có mõi mòn…
55
Mõi mòn chờ đợi biết bao rày
Tri kỷ tương phùng mấy thuở say.
Bữa tiệc đoàn viên vừa mới gặp ,
Vần thơ sum họp đã bao ngày.
56
Giang hồ gác mái - thơ giong ruổi,
Lữ khách dừng chân - áo bụi bay.
Ngựa đã buông cương . Mồi đã sẵn…
Bồ đào ta cạn chén đêm nay…
57
Đêm nay sầu lắc chẳng sao vơi,
Biết trách ai đây lấy nửa lời ?
Gió thổi thuyền trôi muôn dặm nẽo,
Buồn dâng mây nỗi mấy trùng khơi.
58
Ngày đi bến cũ còn mong đợi,
Buổi đến thề xưa lỡ hẹn rồi…
Nhớ mẹ chín chiều lòng quặn thắt,
Đêm nằm nghe lạnh gió mưa rơi…
59
Mưa rơi theo gió Hoàng sa lạnh,
Tráng sĩ dừng cương lạnh buốt lòng.
Kiếm gỏ sao khuyatràn hận biển
Gươm mài núi khuyết ngập hờn sông.
60
Vua Hùng dựng nước- ngàn son sắt
Dân Việt chung xây- một chữ đồng,
Hẹn quyết ngày mai thề lấy lại,
Tấc vàng tất đất của cha ông
61
Cha ông yêu quí từng cây cỏ,
Từng cánh cò bay bạt trắng ngàn.
Tiếng sáo dập dìu trong khoảng vắng,
Giọng hò êm ả giữa chiều sương.
62
Đàn trâu thong thả về ngang xóm.
Lũ trẻ hò reo trở lại làng .
Bà lão đêm đêm cầu Trời Phật ,
Muôn nhà vạn sự được an khang…
63
An khang tình nghĩa vẫn tran đầy
Tri kỷ tương phùng mấy thuở say.
Bữa tiệc đoàn viên vừa mới gặp ,
Vần thơ sum họp đã bao ngày.
64
Giang hồ gác mái - thơ giong ruổi,
Lữ khách dừng chân - áo bụi bay.
Ngựa đã buông cương . Mồi đã sẵn…
Bồ đào ta cạn chén đêm nay…
65
Đêm nay ghé lại chốn thành nam
Thăm bạn năm xưa - rượu uống tràn
Nốc cạn vầng trăng in đáy cốc
Say hoài giếng mắt đẹp mơ màng ....
66
Sông nào mây biếc theo dòng chảy
Bến đó tình xanh mãi đá vàng
Mong một ngày rồi qua bến đó
Em về chung một chuyến đò sang…
KHANG AN MỘT CÕI TRỜI HOA
CON RỒNG CHÁU LẠC NHÀ NHÀ ĐẸP VUI
Nằm đêm góp nhặt đôi lời
Chúc Em Hạnh phúc chúc Đời Tự Do...
voduonghonglam [vophubong]
Friday, April 29, 2022
Wednesday, March 23, 2022
Saturday, February 19, 2022
CHƯƠNG 7: GIẶC NHÀ NGUYÊN (1284-1288)
CHƯƠNG 7: GIẶC NHÀ NGUYÊN (1284-1288)
Monday, February 14, 2022
BA TRIEU AU
Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người ta"
Giúp nuớc xây nhà xua giặc mạnh
Dương cờ khởi nghĩa dựng binh hùng
Bồ Điền[ 1] giữa trận so đao kiếm
Gái Việt bên trời lập chiến công
Nữ tướng Nhụy Kiều danh nỗi tiếng [2]
Ngàn sau rạng rỡ giống Tiên-Rồng.
voduonghonglam[vophubong]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] Bồ- Điền : căn cứ địa xảy ra những trận chiến quyết liệt
--------------------------------------------------------------
(Bà Triệu)
Cuộc đời và sự nghiệp
Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226)[1] tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[2] ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt,[3] bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố[4] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[5] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá) để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà[6] và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Triệu đánh giặc. Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo quyệt phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), song Bà không một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu, giặc bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ hào. Sau nhiều trận trực tiếp đối địch và cũng là hơn nhiều trận liên tiếp chịu nhiều thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng đến kinh hồn bạt vía. Tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên phải thốt lên rằng:
- Hoành qua đương hổ dị,
- Đối diện Bà vương nan.
Dịch:
- Múa giáo đánh cọp dễ,
- Đối mặt Vua Bà thì thực khó.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,[7] vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền.[8] Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi.[9]
Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức làm lễ giỗ bà.
Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 263[11], khi Lã Hưng giết thứ sử Tôn Tư và dâng các châu cho Tào Ngụy, sau này là nhà Tấn.
Bà Triệu – Wikipedia tiếng Việt
Friday, February 11, 2022
BÀ TRIỆU ẨU : TRIỆU THỊ TRINH
GƯƠNG DANH NHÂN NƯỚC VIỆT
Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người ta"
Chém cá tràng kình dậy biển Đông
Giúp nuớc xây nhà xua giặc mạnh
Dương cờ khởi nghĩa dựng binh hùng
Bồ Điền[ 1] giữa trận so đao kiếm
Gái Việt bên trời lập chiến công
Nữ tướng Nhụy Kiều danh nỗi tiếng [2]
Ngàn sau rạng rỡ giống Tiên-Rồng.
--------------------------------
[1] Bồ- Điền : căn cứ địa xảy ra những trận chiến quyết liệt [Bồ Điền giữa trận so đao kiếm] giữa quân Bà và quân Ngô...
--------------------------------------------------------------
(Bà Triệu)
Cuộc đời và sự nghiệp
Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226)[1] tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[2] ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt,[3] bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố[4] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[5] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá) để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà[6] và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Triệu đánh giặc. Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo quyệt phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), song Bà không một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu, giặc bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ hào. Sau nhiều trận trực tiếp đối địch và cũng là hơn nhiều trận liên tiếp chịu nhiều thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng đến kinh hồn bạt vía. Tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên phải thốt lên rằng:
- Hoành qua đương hổ dị,
- Đối diện Bà vương nan.
Dịch:
- Múa giáo đánh cọp dễ,
- Đối mặt Vua Bà thì thực khó.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,[7] vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền.[8] Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi.[9]
Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức làm lễ giỗ bà.
Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 263[11], khi Lã Hưng giết thứ sử Tôn Tư và dâng các châu cho Tào Ngụy, sau này là nhà Tấn.